Xứ Nẫu có từ đâu ? Vì sao Bình Định, Phú Yên lại được gọi là xứ Nẫu?

Vì sao Bình Định, Phú Yên quê mình lại được gọi là xứ Nẫu, Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Bình Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, vì là đại từ nhân xưng nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều. Ví dụ thay vì hỏi Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy? thì người dân Bình Định và Phú Yên hỏi là Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy? hay Cái nhà này là của họ thì dân Nẫu sẽ nói là Cái nhà nhà này là của nẫu.

Đi tìm nguồn gốc

Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan có bổn phận đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả (tỉnh Phú Yên bây giờ). Sau 33 năm khai phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Phường, Nậu, Man.

Cháo gánh – Món ăn quen thuộc của người dân xứ Nẫu

Hành cung ở thành Bình Định, nơi đón tiếp nhà vua về nghỉ ngơi, làm việc khi xa giá đến Bình Định vào thời Nguyễn. Ảnh: N.T.Q chụp lại. – Baobinhdinh.com.vn
Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu.

Nguồn gốc từ đâu
Ví dụ: Nậu nguồn chỉ nhóm người khai thác rừng, Nậu nại chỉ nhóm người làm muối, Nậu rổi chỉ nhóm người bán cá, Nậu rớ chỉ nhóm người đ.ánh cá bằng rớ vùng nước lợ, Nậu cấy chỉ nhóm người đi cấy mướn, Nậu vựa chỉ nhóm người làm mắm…

Cửa Đông thành Bình Định (ảnh tư liệu của gia đình ông Thái Doãn Cổn ở thôn An Ngãi, xã Nhơn Hưng, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định). Ảnh: N.T.Q chụp lại. Baobinhdinh.com.vn

Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chu (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như Thuộc, Nậu bị xóa bỏ.

Khái niệm thành tố chung cấp hành chính Nậu được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba.

Và thế là Nậu được thay bằng Nẫu.


Từ Nậu không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ. Ví dụ:


M.ấ.t chồng như nậu m.ấ.t trâu


Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm.


Tiếc công anh đào ao thả cá


Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu.


Ai về nhắn với nậu nguồn


Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.

Sông Cầu ngày xưa- Nguồn internet
Từ chữ Nậu ban đầu, phương ngữ Phú Yên – Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: ổng, bả. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: ảnh, chỉ


Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa – Quảng Nam) với mô, tề, răng, rứa, chừ, vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình Định – Quảng Ngãi) được đổi thành đâu, kia, sao, vậy, giờ

Phát âm thế nào cho đúng?
Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định – Phú Yên) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ng.ã. Đặc biệt, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên), các âm dấu ng.ã đều phát âm thành dấu hỏi.


Riêng đồng bằng Tuy Hòa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ng.ã. Bởi vậy, Nẩu hay được phát âm là Nẫu.


Đồng bằng Tuy Hòa trù phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ Nẩu theo phát âm quen miệng thành chữ Nẫu.


Nói nôm na, Vì sao tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Bình Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, vì là đại từ nhân xưng nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều. Ví dụ thay vì hỏi Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy? thì người dân Bình Định và Phú Yên hỏi là Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy? hay Cái nhà này là của họ thì dân Nẫu sẽ nói là Cái nhà nhà này là của nẫu.


Chính vì vậy mà khi hòa cùng tất cả tiếng nói của mọi miền đất nước thì tiếng nẫu sẽ không lạc vào đâu được, thậm chí còn dùng những từ hoàn toàn khác với những từ thông dụng, ví dụ thay vì nói Vào tận trong đó thì nói là Dô tuốt trỏng hay hỏi vậy hả? thì hỏi là dẫy na?, dẫy ngheng (vậy nghen hay thế nhé), dẫy á (vậy đó), chu cha wơi (trời đất ơi)

Nẫu ơi , Vì sao nẫu nè………..


Người Việt mình từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đã nổi tiếng là ‘nhà quê’, cho dù có ở thành thị thì vẫn là ‘dân nhà quê’ so với các nước khác. Vậy thử hỏi trong đất Việt Nam mình, xứ nào là ‘nhà quê’ nhứt? Đó chính là xứ Nẫu. Tôi đi khắp Việt Nam , ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi…



Vì sao ‘quê’, Vì sao ngay cái chữ Nẫu nghe nó đã quê rồi. Vì sao Nó khởi thủy là chữ nậu, là một từ cổ ở miền Trung Nam Bộ, theo cụ Vương Hồng Sển, nó cổ đến mức gần như là nguyên thủy, ngày nay không còn ai dùng. Từ nậu để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở: ví dụ: Nậu nguồn chỉ nhóm người trên rừng, Nậu nại chỉ nhóm người làm muối, Nậu rổi chỉ nhóm người bán cá, Nậu rớ chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, Nậu cấy chỉ nhóm người đi cấy mướn, Nậu vựa chỉ nhóm người làm mắm…


Mãi sau, bằng nguyên lý tăng âm đặc trưng của dân Việt mình: ông với ấy tương đương ổng, chị với ấy tương đương chỉ, thì cái nậu với ấy tương đương Nẫu.


Âm Nẫu khác nhau thế nào?
Xứ Nẫu bắt đầu từ Bình Định, Phú Yên và một phần của Khánh Hòa. Cũng như các vùng miền khác, mà gần nhất là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hầu hết các âm tiết đều bị biến dạng theo hướng nặng hơn, khó phát âm hơn…khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu tạo thanh quản của dân xứ Nẫu đã khác đi so với người xứ khác. Nẫu (người ta), rầu (rồi), cái đầu gấu (gối), trời tấu (tối), cái xỉ (muỗng), tộ (chén)…người xứ Nẫu nói cho người xứ Nẫu nghe, cho nên từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng trình trịch, nhưng mà nặng nhất là cái tình:

Ca dao tục ngữ

Thương chi cho uổng công tình


Nẫu dzìa xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ


Khi còn nhỏ, mỗi lần làm điều gì không đúng cha, mẹ, hay ông bà thường nói: đửng làm dẫy, nẫu cừ (đừng làm vậy, người ta cười). Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch…


Dân Nẫu đi đến đâu cũng là ‘dân nhà quê‘, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc nẫu của mình. Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc. Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế. Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam. Nẫu là Nẫu. Nẫu dzẫy (nậu vậy), Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, kệ nẫu. Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống ch.ế.t với bạn.

Bài viết sưu tầm từ 1 số nguồn, nếu có sai sót nhầm lẫn mong các bạn đóng góp ý kiến.


Nội dung bài viết sưu tầm trên các diễn đàn, trong đó sử dụng hình ảnh và 1 số tư liệu của Baobinhdinh.com.vn, Baophuyen.vn

Nhận xét